28 thg 7, 2014

Đã có một người như thế

Gần 10 năm nay tôi đã định viết về ông, mặc dù viết về ông thực là khó. Ông là một nhà khoa học, nhưng còn xa cỡ cha đẻ ra bom nguyên tử, là người kiến thức rộng rãi, nhưng chưa đủ uyên bác để soạn thảo Bách khoa toàn thư, là nhà hoạt động xã hội, nhưng không vượt ra khỏi tầm quốc gia. Tóm lại, ông không phải là vĩ nhân, Thánh nhân để có thể viết cả một cuốn sách về ông với những lời nói bất hủ như là chân lý vĩnh cửu! Ông chỉ là một Con Người - như 2000 năm trước đây nhà hiền triết Diogene đã đốt đuốc giữa ban ngày để tìm.

May thay, tôi không phải làm việc nhọc công của bậc hiền nhân đó, 12 năm nay tôi đã ở cạnh bên ông. Ông là Cục trưởng Đăng kiểm, tôi là nhân viên dưới quyền. Tôi không có tên trong đám những người được ông trọng dụng, mà chỉ thuộc số những kẻ được ông tâm đắc. Có lẽ bởi trời cũng phú cho tôi khả năng có thể ngồi vài ba tiếng nghe ông thuyết giảng từ chuyện trên trời đến chuyện trên biển, có hôm cả dưới đáy biển! Qua những cuộc mạn đàm “marathon” ấy, tôi hiểu ông.

Ông là con Người, bởi lẽ ông thật khác người. Nói ông khác kẻ phàm phu tục tử vẫn là chưa đủ. Ông có hơi hướng, cốt cách của dạng người tử vì Đạo. Ông hờ hững với lạc thú trần gian vì đề cao những khát vọng tinh thần! Tựa hồ như ông không có thân xác. Ông ăn uống để tồn tại chứ không để thoả cái thú ẩm thực. Đĩa tôm he rán, bát rau muống luộc, với ông chúng chỉ khác nhau ở lượng calorie. Ông đã đi khắp thế giới; Đã đứng cúi đầu suy nghĩ trước kim tự tháp Ai Cập; Đã bước lang thang giữa những hàng bán sách cũ ven bờ sông Seine; Đã đặt chân vào Văn phòng hãng Lloyd cự phách một ngày sương mù London có màu đỏ như trong tranh Monet. Và rồi trở về với căn nhà mình tồi tàn, lụp sụp, một xó ngoại ô xa lắc xa lơ như bị lực ly tâm của đời sống thị thành bon chen đánh bật ra ngoài. Những người nông dân Đông Khê, Hạ Lũng (Hải Phòng) sáng sớm ra chợ bán hoa chắc không để ý một người đàn ông gày gò, nhỏ bé, xuyềnh xoàng như họ, đi chiếc xe đạp lọc cọc trên đường gồ ghề ngập bùn bởi trận mưa đêm hôm qua. Ông đó! Ngài Cục trưởng vài hôm trước đã ngồi Boeing phản lực vượt Đại Tây Dương! Nếu ông chỉ là 1 kẻ ép xác giữa thời đồng tiền được nhiều người phong Thánh này, thì ông cũng đã ngồi trên đời thường. Song ông lại có cả cái tâm Hiền, tài trí.

Bình sinh ông là người có tấm lòng đôn hậu, thấm nhuần những tư tưởng nhân văn trong triết học cổ điển Trung Quốc. Đặc biệt thuyết Kiêm ái của Mặc Tử. Người ông ngưỡng mộ đó là Nguyễn Trãi, một tấm lòng yêu đồng loại mênh mông. 10 ngày trước khi rời khỏi cuộc đời, nằm trên giường bệnh trong trạng thái gần tới sự sám hối, ông nói “Tôi không bao giờ làm điều thất đức!”. Có cô nhân viên của ông lỡ thì nghe Hồ Xuân Hương “xui dại” để “Không chồng mà chửa thế mới ngoan”, bị cơ quan đem phê bình để giúp tiến bộ! Ông biết và đòi hủy bỏ lập tức cuộc “hành quyết tâm hồn con người” này. “Nếu người phụ nữ bất hạnh không có quyền được làm vợ, thì phải cho họ quyền được làm mẹ!”- Ông nói. Dạo đó, lễ giáo phong kiến nghiêm chặt còn chưa có “cơ chế thoáng” như là bây giờ, hành động của ông làm cho nhiều người hoảng hốt, kêu toáng lên ông dọn đường cho thói đồi bại lẻn vào cơ quan! Ông đã nổi giận vì con người hóa tàn nhẫn bởi những giáo điều cổ hủ.

Dẫu là ngồi trên ghế cao ông vẫn giữ được khả năng cực quí lắng nghe kẻ dưới kể những nỗi niềm của họ. Cho nên ông biết ngóc ngách, cá tính, gia cảnh vô số nhân viên dưới quyền. Trong thuật xử thế, ông tâm đắc lời Lỗ Tấn: “Quắc mắt khinh thường ngàn lực sĩ. Khom lưng làm ngựa vạn nhi đồng”. Một vị “thượng quan” của tỉnh đã bị ông mời ra cửa vì nói những điều giả dối ngu ngốc về sự công bằng và tình nhân ái (sau này ông ta đã bị huyền chức vì đủ thứ tội). Với những con người có thân phận càng “bé nhỏ”, ông càng giữ mình cẩn thận. Mỗi lần ông đi “Tây” về thì anh gác cổng và chị lao công lại có quà hậu hĩnh hơn tất cả. Khi phải phạt ai thì ông thường đánh vào lưng để đẩy người ta lên trước. Và khi khen ai ông làm người ta cảm động, không có mặc cảm chịu ơn. Xét ra ông ân thưởng gấp trăm lần trừng phạt. Túi ông bao giờ cũng có tiền lẻ để bố thí cho kẻ nghèo (mà ông thì giàu có gì!). Lũ trẻ hành khất mách nhau thường tìm đến ông xin quần, xin áo.

Ông gần đạt tới dạo Thiền để không hoảng hốt, bao dung với đời. Chúng tôi lấy cái tâm mờ, trí đoản đàm tiếu ông gàn và dại, vì 10 năm làm Cục trưởng Đăng kiểm, ngồi trên đỉnh cao quyền lực, bổng lộc, ông không tư túi dành khi về già hưởng thú điền viên. Lòng ông sáng như trăng rằm. Tham nhũng, hối lộ, ông ghê tởm như bệnh hủi, vô phúc cho ai định lấy lòng ông bằng tiền! Đến chết, ông - người thông hiểu lẽ đời - vẫn là kẻ không “thức thời”, vì ông không chịu làm ngơ để người ta bê xe máy, đầu video, xây nhà mặt tiền cho ông! Ông đi Tây như đi chợ mà nghèo như dân làm báo chúng tôi. Tới khi về hưu, ông chẳng ước mình tuổi Sửu. Cái Liêm của ông có thể sánh với người xưa.

Ông có cái Lễ Nghĩa của nhà nho hiểu sách Thánh hiền. Ai giúp được ông điều gì ông đều cảm ơn cẩn thận. Ông giúp được ai điều gì thì ông lặng lẽ như không. Cũng những năm trước, một cán bộ đầy năng lực của ông, vì vướng lý lịch mà bị khó dễ trong việc làm hộ chiếu đi Nhật Bản công tác, ông đã tự ý đem cả sinh mệnh chính trị đặt cược vào Tờ Bảo lãnh. Người thân của ông dày vò: “Nhỡ anh ta trốn ở lại?” Ông cười thản nhiên: “Thì tôi đi tù!”. Dĩ nhiên trước cái nghĩa tình như vậy, ai nỡ không về. Dẫu người đức độ, song ông không lánh xa đời như nhà tu hành. Trái lại, ông là 1 kẻ “dấn thân” theo Jean Paul Sartre, là nhà khoa học có tài tổ chức, là nhà sư phạm đáng kính và nhà hoạt động xã hội nhiệt tâm.

Đăng kiểm là ngành khoa học độc đáo, một thứ “cảnh sát kỹ thuật” bảo vệ cuộc sống của tàu thuyền trên sông biển. Con tàu hiện đại là sự thể hiện bằng sắt thép các tri thức khổng lồ, đôi khi là những tiếng nói mới nhất của khoa học và kỹ thuật. Bởi thế, trong làng hàng hải nước ngoài, Đăng kiểm đồng nghĩa với sự thông thái, uyên bác. Đăng kiểm Việt Nam ra đời vào năm 1964. Trước khi có ông, nó chỉ là 1 hình nhân. Ông đến thổi hồn cho nó, nhào nặn nó bằng bàn tay của nhà độc tài, thành một thực lực hiện hữu từ Bắc đến Nam, và bắt đầu tìm ảnh hưởng của mình bên ngoài biên giới quốc gia. Thế nhưng, thống trị ở Cục Đăng kiểm không phải là bầu không khí phập phồng lo âu của cuộc thanh trừng, mà là tinh thần dân chủ sâu sắc, tự do cởi mở, hiếm nơi nào hơn. Bởi ông không “cai trị” bằng thủ đoạn tàn nhẫn, tính hà khắc của bạo chúa và sự mị dân phè phỡn. Ông lấy cái Tâm và Tài cảm hoá, chinh phục như chàng Đanco đốt trái tim mình làm đuốc dẫn đường. Vì ông thường nói: “Thượng bất chính, hạ tất loạn”.

Ai đã gặp ông hẳn khó lòng quên một ông già gầy, bé nhỏ, linh hoạt, khôn ngoan, nói nhiều và nhanh như máy. Ông có kiến thức lại thêm có lửa trong lòng làm thành biệt tài hùng biện của các thuyết khách thuở xưa. Nhiều nhà báo, nhà chính trị bị ông chinh phục bằng nghệ thuật này. Ông là một nhà ngoại giao mẫn tiệp. Sức cảm hoá và hấp dẫn con người của ông thật là kỳ lạ. Mỗi lần bước chân ra khỏi phòng ông, tôi có cảm giác như trời xanh hơn và lòng khát khao làm việc nhiều hơn. Bởi thế ông luôn lôi cuốn được một tập thể tình nguyện, hào hứng, tạo sức mạnh cho những tư tưởng và hành động của mình.

Cái đích cuộc đời ông là sự nghiệp, chứ không phải sự vinh thân phì gia, nên ông dám dùng người tài dù “ngựa thiên lý bất kham”. Hơn nữa, ông quan niệm rằng chẳng có ai bỏ đi cả. Ông quan võ giỏi bắn cung, người bán dầu giỏi rót dầu, vấn đề là có con mắt tinh đời đặt người nào vào việc nấy. Phần lớn cán bộ Đăng kiểm ngày nay, từ ông Cục phó đến người gác cổng, đều là học trò của ông.

Ông có khả năng làm việc triền miên như được lắp một động cơ vĩnh cửu. Sáng đến cơ quan cứ nhìn điệu bộ bận rộn như chuẩn bị cưới của cô nhân viên tổng đài điện thoại, thấy người nhộn nhịp như đi ăn tiệc bị muộn ngoài các hành lang, nghe máy tính đánh rào rào, biết ngay là ông cónhà, cả cơ quan đang chạy theo. Còn khi nào ông vắng nhà, trao quyền cho vị “phó vương” hiền lành, thì cô tổng đài lại ngồi tỉa tót lông mày, ông chuyên viên vẫn lạnh lùng đứng gác chân nhổ râu vặt, chị đánh máy sôi nổi bàn về mốt... Sinh hoạt cơ quan trở lại bình thường! Tôi nghĩ đấy là khuyết điểm của ông.

Xuất thân trong một gia đình dòng dõi trí thức, phương pháp làm việc của ông khoa học và có mục đích rõ ràng. Ông kiên trì và khôn khéo để hầu như không thất bại trong những quyết tâm chiến lược của mình. Ông là người đi tiên phong, vận động đưa Việt Nam vào IMO (Tổ chức hàng hải quốc tế của Liên hợp quốc); Là một trong những người sáng lập Trường Đại học Hàng hải Việt Nam; Một người khởi xướng thành lập Hội từ thiện Tấm lòng vàng Hải Phòng. Chính ông đề nghị đổi tên Tổng Công đoàn Việt Nam thành Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam; Là cha đẻ của Đăng kiểm Việt Nam theo nghĩa hiện đại của từ. Về hưu, ông hoạt động Hội, thành lập Cty Tư vấn. Còn là gì nữa, ai biết? Nếu không có cái chết đến. Những tế bào phổi ung thư làm ông đau đớn. Biết mình bị bệnh nan y, ông không ăn uống, rũ áo ra đi, mang theo trái tim cô đơn, tan nát vì bao khát vọng bỏ dở không còn thực hiện. Trước tết, tôi đem thư thăm hỏi của anh em báo chí biết ông ốm nặng vào viện đọc cho ông nghe. Ông khóc. Không ngờ đấy là những giọt nước mắt cuối cùng của một tâm hồn đa cảm.

Ông ơi, cổ nhân hát rằng “Quan bà chết, khách đầy nhà. Quan ông mà chết, cỏ gà đầy sân” vì không biết có những người như ông đấy thôi. Hôm đưa ông đi an giấc ngàn thu cũng có điếu văn, có hoa như nhiều người khác. Chỉ có nước mắt hơn nhiều người khác. Nước mắt khô khốc của ông bạn già hàng xóm. Nước mắt nức nở của người hoạ sĩ vốn chỉ tôn thờ cái đẹp. Nước mắt lặng lẽ của các nhân viên dưới quyền mà ông thì đã về hưu từ 3 năm nay! Ông còn đâu quyền cho ai đi “Tây”, đi Nhật. Còn bổng lộc đâu ban phát cho ai? Họ không khóc cho ông Dinh văn Khai, Cục trưởng, mà khóc vì một ông Đinh văn Khai- Con Người. Nước mắt bây giờ mặn như máu đỏ vì nó ứa từ tim lên, chứ không từ đầu chảy xuống. Rơi vào bó hương tàn kia, nước mắt sẽ cháy bùng lên như ngọn đuốc của người xưa đi tìm một Con Người.

Xin ông yên lòng ra đi, ông Đinh Văn Khai ơi! Con trai ông đã có việc, con gái ông đã có tuần trăng mật như niềm mong ước cuối cùng của ông. Đăng kiểm vẫn tồn tại đấy với tất cả những dấu ấn, thành quả, phong cách của ông. Còn tấm bia trên mộ ông, chúng tôi đã khắc vào lòng. Xin ông đừng trách một vài kẻ không hiểu ông, đã cười cợt, xuyên tạc ông, chỉ vì ông Con Người quá ông ơi. Chúng tôi không theo nổi ông. Dẫu biết rằng ông cũng có khuyết điểm đời thường. Ông khắc kỷ quá, không phải mẫu người trần tục hiện đại: Biết làm và cũng biết hưởng! Ông như một giấc mơ đẹp. Chúng tôi chỉ biết kính nhi viễn chi, lấy ông làm gương dạy cho con cháu. Thế nhưng xã hội không có những người hỉ xả như ông sẽ chỉ còn sự tầm thường!

Tôi vục cả đầu vào bể nước lạnh, mong lấy cái lòng nguội lạnh, cố viết những lời lạnh lùng về ông để tình cảm riêng không bùng cháy thiêu đốt mình, để ông hiển hiện như ông vốn có.

Ông là người thày đưa tôi vào nghề làm báo. Hôm nay về nơi thiên cổ, xin nhận nơi tôi ba lạy!

Link Facebook